Giới thiệu đất nước Canada
ĐẤT NƯỚC CANADA
Đến khi liên bang hóa vào năm 1867, Dominion of Canada (Lãnh thổ tự trị Canada) được chọn làm tên gọi pháp lý của quốc gia mới. Tuy nhiên, khi Canada khẳng định quyền tự chủ của mình khỏi Anh Quốc, chính phủ liên bang ngày càng chỉ sử dụng Canada trong các tài liệu nhà nước và hiệp định. Sự thay đổi này được phản ánh thông qua việc đổi tên ngày lễ quốc gia từ Dominion Day (Ngày Lãnh thổ tự trị) sang Canada Day (Ngày Canada) vào năm 1982.
Tên gọi Canada bắt nguồn từ Kanata trong ngôn ngữ của người Iroquois Saint Lawrence, nghĩa là “làng” hay “khu định cư”. Năm 1535, các cư dân bản địa sử dụng từ này để chỉ đường cho nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier đến làng Stadacona. Cartier sau đó sử dụng từ Canada để nói đến không chỉ riêng ngôi làng, mà là toàn bộ khu vực lệ thuộc vào Donnacona (tù trưởng tại Stadacona). Đến khoảng năm 1545, các sách và bản đồ tại châu Âu bắt đầu gọi khu vực này là Canada.
- Những năm 50.000 TCN xuất hiện nhiều người di cư từ lục địa Á Âu đến Alaska nhưng họ buộc phải dừng lại do tuyết phủ quá dầy. Những năm 16.000 TCN, họ tiếp tục di chuyển về phía đông và phía nam của lục địa Bắc Mỹ để an cư.
- Khí hậu ở lục địa Bắc Mỹ những năm 8.000 TCN tuy vẫn còn nhiều vùng đóng băng nhưng có khí hậu khá lý tưởng gần tương tự như khí hậu hiện nay.
- Những nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha, Pháp, Anh lần lượt khám phá ra những vùng đất của Canada bao gồm vùng đảo Newfoundland, Labrador, vịnh Hudson.
- Người Anh, người Pháp tổ chức nhập cư, chiếm giữ các vùng đất và gây ra các cuộc chiến tranh với người thổ dân và đỉnh điểm là Chiến tranh bảy năm giữa Anh và Pháp. Chiến tranh kết thúc vào năm 1763 với sự nhượng bộ phần lớn lãnh thổ của Pháp cho Anh.
- Những quyết định từ Hội nghị Quebec và Hội nghị Charlottetown năm 1864 đã đặt nền tảng cho các thuộc địa của Vương quốc Anh tại Bắc Mỹ thành lập một liên bang thống nhất.
- Đạo Luật Anh tại Bắc Mỹ đã phân chia vùng đất Canada thành 2 tỉnh bang Ontario và Quebec để cùng với New Brunswick và Nova Scotia thành lập Quốc gia tự trị Canada vào ngày 1 tháng 7 năm 1867.
- Đạo luật Westminster được Quốc hội Vương quốc Liên hiệp Anh thông qua. Đạo luật đã loại bỏ gần như toàn bộ thẩm quyền của Quốc hội Anh đối với các thuộc địa, làm cho các quốc gia thống trị hoàn toàn và có chủ quyền riêng của họ.
- Đạo luật Canada năm 1982 cắt đứt những tàn dư của sự phụ thuộc tư pháp vào nghị viện Anh Quốc.
Canada là quốc gia có diện tích lớn thứ hai trên thế giới với lãnh thổ trải dài từ phía đông giáp với Đại Tây Dương đến phía tây giáp với Thái Bình Dương, phía bắc giáp Bắc Băng Dương, và phía nam giáp với lục địa Hoa Kỳ bằng một đường biên giới chung dài nhất thế giới.
Canada có địa hình đa dạng từ đồng bằng đến rừng rậm, đồi núi. Đồi núi và núi lửa tập trung chủ yếu ở phía tây và vùng phía bắc. Phía nam địa hình tương đối thấp và có nhiều sông hồ.
Canada có khí hậu đa dạng, từ khí hậu ôn đới trên bờ biển phía tây đến tuyết phủ hầu hết các tháng trong năm ở vùng cực. Các khu vực không giáp biển thường nằm trong vùng khí hậu lục địa có mùa hè ấm áp, ngoại trừ phía tây nam tỉnh bang Ontario nằm trong vùng khí hậu lục địa có mùa hè nóng ẩm. Phía tây có khí hậu bán khô hạn, vùng đảo tỉnh bang British Columbia có thể được xếp vào kiểu khí hậu Địa Trung Hải có mùa hè mát mẻ.
Canada có một hệ thống nghị viện trong khuôn khổ chế độ quân chủ lập hiến, đứng đầu (quân chủ) là nữ hoàng Elizabeth II (Nữ hoàng Anh), đại diện cho Nữ hoàng là toàn quyền Canada (hiện là bà Julie Payette). Trên thực tế, các nhân vật quân chủ và phó quân chủ bị hạn chế trong việc tham gia trực tiếp vào việc điều hành công việc quốc gia, họ sử dụng các quyền hành pháp theo chỉ dẫn của Nội các, đây là một hội đồng gồm các Bộ trưởng của quốc gia chịu trách nhiệm trước Nghị viện, do Thủ tướng Canada lựa chọn và đứng đầu. Thủ Tướng đương nhiệm của Canada là ông Justin Trudeau.
Canada là một quốc gia nằm trong Khối Thịnh Vượng chung, một thành viên của NATO và G7 (Bảy quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế giới). Canada có chính sách đối ngoại độc lập và là quốc gia có nền chính trị được đánh giá là ổn định nhất thế giới. Ở Canada ít khi xảy ra xung đột sắc tộc, xung khắc quyền lợi nội bộ và các nước trên thế giới.
Canada là 1 trong 10 quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới. Với dân số ít, Canada có thể được xem là một trong các quốc gia giàu nhất thế giới. Canada nằm trong nhóm 7 quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất toàn cầu (G7) và là thành viên tổ chức Hợp tác và Phát Triển Kinh Tế (OECD).
Canada có thế mạnh trong các ngành dịch vụ (chiếm 3/4 tỷ trọng nền kinh tế) và khai thác khoáng sản. Canada xếp thứ hạng cao trong danh sách các quốc gia có nền kinh tế tự do trên thế giới. Kinh tế Canada liên kết chặt chẽ với Hoa Kỳ về cả thể chế kinh tế lẫn mô hình sản xuất.
Tỷ lệ thất nghiệp ở Canada thấp, thu nhập bình quân theo đầu người là 46.212 USD. Nợ chính phủ thấp nhất trong nhóm G7.
Chăm sóc sức khỏe ở Canada được thực hiện thông qua hệ thống riêng của từng tỉnh bang và vùng lãnh thổ. Chương trình chăm sóc sức khỏe được tài trợ công khai, được gọi không chính thức là Medicare.
Các chương trình chăm sóc sức khỏe được quy định bởi Đạo luật Y tế Canada năm 1984. Dịch vụ y tế công được tài trợ thường được người Canada coi là giá trị cơ bản trong việc đảm bảo chăm sóc sức khỏe quốc gia cho tất cả mọi người dù họ sống ở đâu trên đất nước.
Medicare cung cấp bảo hiểm khoảng 70% và 30% chi phí còn lại được thanh toán thông qua khu vực tư nhân. Ngoài ra, dịch vụ y tế tư nhân không được Medicare chi trả hoặc chỉ chi trả 1 phần thường là các dịch vụ y tế không thiết yếu như nha khoa, thẩm mỹ, các bệnh thị lực…
Các tỉnh bang và vùng lãnh thổ của Canada tự chịu trách nhiệm về hệ thống giáo dục của khu vực tài phán. Độ tuổi bắt buộc đến trường có phạm vi từ 5–7 đến 16–18 tuổi, tỷ lệ dân số biết chữ là 99%.
Năm 2011, 88% dân số có tuổi từ 25 – 64 có trình độ tương đương tốt nghiệp trung học, trong khi tỷ lệ chung của OECD là 74%.
Năm 2002, 43% người Canada từ 25 – 64 tuổi có trình độ học vấn sau trung học. Trong độ tuổi từ 25 – 34, trình độ sau trung học đạt 51%.
Theo một tường thuật của NBC năm 2012, Canada là quốc gia có trình độ học vấn cao nhất trên thế giới. Chương trình đánh giá sinh viên quốc tế (PISA) chỉ ra rằng, sinh viên Canada có trình độ tốt hơn mức trung bình của OECD
Ngôn ngữ chính thức của Canada gồm tiếng Anh và tiếng Pháp. Gần 60% dân số Canada có tiếng mẹ đẻ là tiếng Anh, 22% là tiếng Pháp. Đại đa số người nói tiếng Pháp sống tại tỉnh bang Quebec, Ontario, New Brunswick và Manitoba. New Brunswick (Nouveau
Các tỉnh bang có quyền tự trị lớn hơn các vùng lãnh thổ. Các vùng lãnh thổ nhận ủy nhiệm và quyền lực từ chính quyền liên bang. Ngược lại, chính quyền tỉnh bang nhận ủy nhiệm trực tiếp từ hiến pháp Canada và tự chịu trách nhiệm đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh bang.
Biểu tượng – Ngôn ngữ
Hai ngôn ngữ được sử dụng phổ biến nhất ở Canada là tiếng Anh và tiếng Pháp. Gần 60% người dân của quốc gia này sử dụng tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ. Tiếng Pháp được sử dụng bởi 22% dân số.
Ẩm thực
Nếu đã đến Canada, bạn không thể không một lần nếm thử những món đặc sản như: Siro cây lá phong, rượu vang đá, tôm hùm đút lò của Prince Edvvard Island, món chân hải cẩu của Newfoundland, bánh đường cây phong của Quebec, phô mai và bagel kiểu truyền thống của Oka, thịt bò Alberta, bánh Nanaimo và cá hồi nướng trên tấm gỗ tuyết tùng của British Columbia,…
Nghệ thuật
Nghệ thuật Canada được pha trộn bởi nghệ thuật Châu Âu và nét văn hóa thổ dân lục địa Bắc Mỹ.
Truyền thống
Truyền thông Canada bao gồm: Truyền hình, phát thanh, tạp chí, phim ảnh.
Văn hoá xã hội
Canada có rất nhiều chính sách xã hội nhằm đảm bảo cuộc sống cho người dân như: chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chính sách thuế để phân loại giàu nghèo, cấm án tử hình, nỗ lực mạnh mẽ để hạn chế nghèo đói, kiểm soát chặt chẽ vũ khí…
Thể thao
Canada chia sẻ một số giải đấu chuyên nghiêp với Hoa Kỳ. Ngoài ra, thể thao nghiệp dư cũng rất phát triển.